LAWRENCE XỨ Ả-RẬP

linh_449

Linh Linhh
Scott Anderson
Thomas Edward Lawrence hay Lawrence xứ Ả-Rập là một trong những nhân vật bí ẩn và gây tranh luận nhất của thế kỷ 20. Hơn 70 năm sau khi ông qua đời, và gần một thế kỷ kể từ kỳ tích khiến ông nổi tiếng, dường như các nhà sử học vẫn chưa có một cái nhìn thống nhất về chàng học giả Oxford trẻ tuổi rụt rè đã thay đổi lịch sử. Song, không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của ông với tư cách vừa là chứng nhân vừa là người tham dự trong một số sự kiện quan trọng nhất dẫn đến việc hình thành Trung Đông hiện đại.
Hầu như không có dấu hiệu nào cho thấy Lawrence đã theo dõi các sự kiện trong bán đảo Ả-rập, hoặc thậm chí biết đến chúng, trong vài tháng đầu tiên của anh ở đơn vị tình báo tại Cairo – có thể hiểu được bởi sự tập trung đến mức ám ảnh của anh vào Syria. Điều đó đã thay đổi khi anh làm quen với Ronald Storrs, thư ký phương Đông của Anh ở Ai Cập.
Bên cạnh vai trò là một nhân vật lịch thiệp tại các buổi tiếp đón và hội hè chính thức mà cộng đồng Anh ở Cairo đặc biệt ưa thích, Storrs còn là cánh tay phải của Tổng lãnh sự Anh tại Ai Cập, một chuyên gia giám sát đằng sau vô số mưu đồ chính trị trong quốc gia. Vận may của anh thăng hoa đáng kể khi Bá tước Kitchener đảm nhận vị trí năm 1911. Nhanh chóng coi Storrs là viên trung úy đáng tin cậy nhất, Kitchener đã duy trì mối quan hệ ngay cả sau khi được bổ nhiệm làm Bộ trưởng chiến tranh vào tháng 8 năm 1914. Vì ngài hoàn toàn có ý định đảm nhiệm lại chức vụ của mình tại Ai Cập khi chiến tranh kết thúc, Kitchener đã để lại người kế vị ở Cairo để làm tai mắt cho ngài.
Nhưng còn nhiều tình tiết ly kỳ hơn thế. Dưới trướng Kitchener, Ronald Storrs là người dẫn dắt quan trọng trong một trò chơi chính trị nhạy cảm đến mức chỉ có một số ít người ở Cairo, London và Mecca biết đến, người sở hữu bí mật có lẽ nguy hiểm nhất ở Trung Đông. Bằng cách kết bạn với T. E. Lawrence và lôi kéo anh nhập bọn trong bí mật đó, Storrs sẽ đặt chàng sĩ quan trẻ tuổi thông tuệ vào con dẫn đến danh vọng và vinh quang. Ít nhất vào ban đầu, tình bạn đó cũng dựa trên một điều cực kỳ giản dị, một tình yêu chung với văn học cổ điển. Như cách mà Storre vốn cổ hủ nói đến Lawrence trong hồi ký của mình, “Chúng tôi không có sự khác biệt trong gu văn học, ngoại trừ việc cậu ấy thích Homer hơn Dante và ghét việc tôi thích Theocritus hơn Aristophanes.”
Với bất kỳ ai tìm cách biện minh cho mạng lưới các thỏa thuận xung đột lợi ích của Vương quốc Anh đã được dệt lên ở Trung Đông vào mùa xuân năm 1916, họ thực sự đã có sẵn vài lập luận mạnh mẽ trong tầm tay.
Có lẽ cái cớ rõ ràng nhất đã được truyền đạt ngắn gọn trong câu châm ngôn xưa rằng mọi chuyện đều công bằng trong tình yêu và chiến tranh. Đến tháng 5 năm 1916, chiến tranh đã giết chết hàng triệu thanh niên trên khắp châu Âu và tương lai dường như hứa hẹn còn hơn thế nữa; nếu giao dịch kép và những lời hứa hão có thể giúp đẩy cuộc chiến đến hồi kết thì ai có thể thực sự tranh luận chống lại cách thức đó?
Ngoài ra còn có một lập luận đơn giản, đầy nhạo báng được đưa ra: đó là mớ rối bời những lời hứa xung đột nhau đó chẳng có gì quan trọng vì có lẽ cuối cùng chúng chỉ là tranh cãi học thuật. Ngay cả những người tôn thờ chủ nghĩa đế quốc mơ mộng nhất hẳn cũng phải nhận ra rằng có một thứ gì đó mơ hồ, lố bịch với việc Anh và Pháp ngồi không rung đùi và chia cắt miếng bánh Trung Đồng thời hậu chiến vào thời điểm mà nếu không hoàn toàn thua cuộc, họ chắc chắn cũng chẳng phải là kẻ chiến thắng. Về phần Hussein, ngài đã lải nhải về một cuộc nổi dậy chống lại Constantinople kể từ trước chiến tranh rồi, và giờ vẫn chưa có dấu hiệu nhỏ nhoi nào chứng minh nó sẽ xảy ra. Trong trường hợp bất khả thi là cuộc nổi dậy của người Ả-rập đã nổ ra và phe Hiệp ước đã chiến thắng trong cuộc chiến, các biến chứng sẽ là kiểu vấn đề tốt nhất dành cho kẻ nhàn rỗi, vì mọi vấn đề đều có thể xử lý dần dần.
Theo nhiều nhân chứng, vào sáng ngày 5 tháng 6 năm 1916, Emir Hussein đã leo lên một tòa tháp trong cung điện của mình ở Mecca và bắn một phát đạn bằng một khẩu súng hỏa mai cũ về hướng pháo đài Türkiye của thành phố. Đó là dấu hiệu của sự nổi loạn, và đến cuối ngày hôm đó, bề tôi của Hussein đã phát động các cuộc tấn công vào một loạt các cứ điểm mạnh của Türkiye dọc khắp chiều dài của Hejaz.
Bằng một bước ngoặt kỳ lạ của số phận, những người phương Tây đã cống hiến nhiều hơn bất kỳ ai khác để biến cuộc nổi dậy đó thành hiện thực sẽ không bao giờ được chứng kiến nó nổ ra. Ngay trước 5 giờ chiều cùng ngày hôm đó, một tàu tuần dương của Hải quân Hoàng gia, HMS Hampshire, rời cảng ở phía bắc Scotland để đưa Bá tước Kitchener, Bộ trưởng chiến tranh, đến Nga. Chưa đầy ba giờ sau, Hampshire đâm vào một bãi mìn của Đức và nhanh chóng chìm xuống biển sâu. Gần như mọi người trên tàu đều tử nạn, bao gồm cả Kitchener.
Chỉ hai tuần trước đó, Lawrence đã trở về từ thất bại thảm hại của mình ở Iraq để tiếp tục công việc bàn giấy tại khách sạn Savoy. Tương lai của anh không có triển vọng gì khác so với quá khứ của anh: làm giấy tờ, lập bản đồ, viết kế hoạch và viết các báo cáo sẽ không bao giờ được biến thành hành động. Thay vào đó, với tin tức từ Mecca, anh sẽ sớm có cuộc chiến trong mơ của mình, một cuộc chiến sẽ đưa anh đến đỉnh cao danh vọng, và sau đó đi vào huyền thoại.
 

Đính kèm

Bên trên