Nhà thơ Quách Tấn với bản dịch Nhật ký trong tù

Kim Hào

Well-known member
Nhà thơ Quách Tấn (1910 - 1992) sinh ra và lớn lên ở thôn Trường Định, huyện Bình Khê nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Năm 1929 sau khi đậu bằng Cao Đẳng tiểu học, ông đã đến làm việc tại Nha Trang. Trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1954, Quách Tấn cùng gia đình trở về Bình Định, ông tham gia dạy học ở một số trường trung học và công tác trong các cơ quan của Ủy Ban kháng chiến, Mặt trận Liên Việt tại địa phương. Sau năm 1954, Quách Tấn trở lại Nha Trang, làm công chức gần 10 năm. Ông mất vào ngày 21/12/1992 tại một ngôi nhà nhỏ ở đường Bến Chợ gần chợ Đầm, Nha Trang.

Quách Tấn có một sự nghiệp văn chương đa thể loại với những sáng tác thơ Đường luật, thi thoại, du ký địa phương, hồi kí, dịch thuật. Nhà thơ Quách Tấn đến với dịch thuật bằng niềm yêu thích đặc biệt. So với những dịch giả hồi đầu thế kỉ XX, có thể thấy trường hợp Quách Tấn gần giống với Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục là những người đều xem dịch thuật là đam mê lớn trong hành trình sáng tạo nghệ thuật.

Nói đến Quách Tấn (1910-1992), người ta biết đến ông là một thành viên của nhóm “Bàn thành tứ hữu” gồm những tên tuổi đất Bình Định nổi danh trên văn đàn với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê và Quách Tấn. Trong sự nghiệp cầm bút của mình, Quách Tấn để lại một di sản tác phẩm khá đa dạng cả về thơ lẫn văn.



Từ trái qua: Nhất Yến (nhà thơ Yến Lan), nhì Hàn (nhà thơ Hàn Mặc Tử), tam Lan (nhà thơ Chế Lan Viên), tứ Quách (nhà thơ Quách Tấn) được gọi là Bàn thành tứ hữu. Ảnh tư liệu.

Quách Tấn đã lần lượt phỏng dịch: Trăng ma lầu Việt (1947), Thơ Thái Thuận (1947), Nghìn lẻ một đêm(1960), Thơ Nguyễn Du (1966), Thơ Hồ Chí Minh (1969),... Những tác phẩm dịch đều được nhà thơ dịch trong nhiều năm liền. Năm 1960, tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh lần đầu được nhà xuất bản Văn học ấn hành. Đến năm 1969, Quách Tấn đọc bản dịch thơ Hồ Chí Minh từ người em trai Quách Tạo gởi từ miền Bắc vào. Bản dịch của các dịch giả khi ấy đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ, Quách Tấn âm thầm dịch lại tập Nhật kí trong tù trong nhiều năm. Sau khi dịch, ông đã nhờ Trần Thúc Lâm viết chữ Hán và hoàn tất vào tháng 10 năm 1975.

Năm 1978, Viện Sử học cử một đoàn cán bộ đi khảo sát một số vấn đề lịch sử và văn hóa tại các tỉnh miền Trung vừa được giải phóng. Đoàn công tác gồm nhà sử học Dương Trung Quốc và một số cán bộ văn hóa đã đến nhà Quách Tấn nhằm thu thập tài liệu lịch sử về vùng đất miền Trung. Nhà thơ đã tặng cho Viện sử học Việt Nam không ít sách quý mà cả đời ông đã sưu tầm được. Nhân dịp ấy, Quách Tấn giới thiệu với Dương Trung Quốc bản dịch thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Nhưng mãi đến năm 2015, nhiều năm sau khi nhà thơ Quách Tấn mất, tập thơ dịch Ngục trung nhật kí mới đến được với bạn đọc vì sinh thời Quách Tấn dịch Nhật kí trong tù bởi lòng yêu thích và không có ý khoe khoang với bất kì ai. Nhà thơ từng chia sẻ: “Tôi cảm cụ Hồ là một nhà thơ nên tôi đọc kỹ phần dịch ra quốc ngữ do các bậc túc nho ngoài Bắc dịch, thấy có nhiều điều hay nhưng cũng có điều chưa thật ưng ý. Vả lại, với cái thú của người thích dịch thơ Đường nên tôi cất công ngồi dịch lại”.

Dịch thơ Đường là một trong những công việc quen thuộc của các nhà nho xưa, mỗi người theo trường phái và nguyên tắc dịch khác nhau, ví dụ nguyên tắc “Tín, đạt, nhã”, “Ngũ thất bản”, “Tam bất dị”… nhưng đều thống nhất ở một số điểm chung: các dich giả đều xem văn học dịch là một loại dịch thuật đặc biệt ở đó người viết vừa đảm bảo tính nghệ thuật của văn bản lẫn kĩ thuật dịch. Đây là một yêu cầu khó khăn đối với người làm công tác dịch thuật bởi dịch thuật Hán Nôm được nhận thức như là “một khoa học, một nghệ thuật”, ở đó dịch giả có thể dịch đúng hoặc dịch sáng tạo. Ở trường hợp bản dịch Ngục trung nhật kí của Hồ Chí Minh, có thể thấy Quách Tấn chọn lối dịch ý, kĩ thuật dịch theo lối dịch tự do nghiêng về phía bản dịch và tuân theo chủ ý của dịch giả.



Quách Tấn đã dịch 115 bài của Nhật kí trong tù trong đó: 58 bài dịch theo thể lục bát, 37 bài dịch theo tứ tuyệt, 4 bài dịch theo thể ngũ ngôn và 2 bài dịch theo thể tự do. Cuối năm 2000, Trung tâm nghiên cứu Quốc học đã đưa 73 bài thơ dịch của Quách Tấn vào tập Hồ Chí Minh – Thơ toàn tập. Khi dịch Nhật kí trong tù, Quách Tấn đã đảm bảo tính nhật kí của tập thơ bởi những ghi chép về những điều tai nghe mắt thấy của người chiến sĩ cách mạng trên đường đi đày và bị chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác. Yếu tố tự sự, tinh thần hướng nội của người tù được nhà thơ thể hiện khá rõ nét qua nhiều bản dịch. Nhưng đặc sắc nhất trong những bản dịch mà Quách Tấn dịch thơ Hồ Chí Minh phải kể đến mảng thơ nghệ thuật, phần thơ thể hiện rõ nhất tiếng nói tâm hồn của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh.



Sau đây, Book365 xin giới thiệu một số bản dịch thơ Hồ Chí Minh của Quách Tấn:

1. Bài "Nạn hữu chi thê thám giam" (Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng).
Bản dịch của Quách Tấn khá sát với nguyên tác, đảm bảo chất thơ và tinh thần của bài thơ.
Bản dịch của Quách Tấn
Chàng đứng trong song sắt
Thiếp đứng mé ngoài sông
Gần nhau trong tấc gang
Cách nhau nghìn núi sông
Khôn buông lời khỏi miệng
Đành lấy mắt trao lòng
Chưa nói đã tuôn lệ
Cảnh tình, ôi đáng thương
Bản dịch của Nam Trân
Anh ở trong song sắt
Em ở ngoài sông sắt
Gần nhau chỉ tấc gang
Mà cách nhau trời vực
Miệng nói chẳng nên lời
Chỉ còn nhớ khóe mắt
Chưa nói, lệ tuôn trào
Tình cảm đáng thương thật.
Bài thơ này có nhiều bản dịch đều lặp lại từ “nói”, bản dịch của Trần Đắc Thọ và Nam Trân lặp từ “nói” hai lần, riêng bản Quách Tấn chỉ dùng một lần, bản dịch cảm xúc, đảm bảo tính hướng nội vốn là đặc trưng thơ Hồ Chí Minh.
Hai câu thơ cuối trong nguyên tác là:

Thiên lý quan hà vô hạn cảm

Khuê nhân cánh thướng nhất tầng lâu


(Người khuê phụ bước lên thêm một tầng lầu Bản dịch Quách Tấn gần với nguyên tác và làm cho không gian thơ mở ra cùng nỗi nhớ quê hương của người tù. Bản dịch đã giữ lại từ khóa của bài thơ “tư hương khúc” nghĩa là khúc nhạc nhớ quê hương khiến âm vang của bài thơ da diết, giàu sắc gợi cảm.


2. Bài "Nạn hữu xuy địch" (Người bạn tù thổi sáo)
Bài thơ này có bốn bản dịch trong đó bản dịch in trong năm 1960 của Nam Trân đã được chọn lọc qua thời gian.
Bản dịch của Quách Tấn
Bạn tù thổi sáo
Bỗng nghe tiếng sáo thê lương,
Trong tù thổi khúc tư hương não nùng.
Quan san mắt nghẹn muôn trùng,
Nhớ thương giục bước lầu hồng lên cao.
Bản dịch của Nam Trân
Người bạn tù thổi sáo
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu
Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
So với nguyên tác, bản dịch của Quách Tấn đã chuyển từ thơ tứ tuyệt sang thơ lục bát, nhịp thơ từ 4/3 chuyển sang 2/4, 2/4/2/3 , dịch sát ý đặc biệt ở hai câu cuối.

3. Bài Nạn hữu đích chỉ bị (Chăn giấy của người bạn)

Bài này có ba bản dịch thơ đều dịch sang thơ tứ tuyệt, riêng có Quách Tấn dịch sang thơ lục bát, vừa đảm bảo vần điệu lẫn ý tứ bài thơ:

Bản dịch Quách Tấn
Sách xưa sách mới bồi chồng
Dù mền giấy vẫn hơn không có mền
Biết chăng màn gấm ấm êm
Bao nhiêu kẻ thức suốt đêm trong tù
Bản dịch Nam Trân- Băng Thanh
Sách xưa sách mới bồi thêm ấm
Chăn giấy còn hơn chẳng có chăn
Trướng gấm giường ngà ai có biết
Trong tù bao kẻ ngủ không an
4. Bài Thụy bất trước (Không ngủ được)

Nguyên tác

Nhất canh nhị canh hưu tam canh

Triển chuyển, bồi hồi thụy bất thành

Tứ ngũ canh thời tài hợp nhẫn

Mộng hồn hoàn nhiều ngũ tiêm tinh

Bài thơ này có nhiều bản dịch, thành công nhất là bản dịch của Viện văn học năm 1960, khi dịch lại bài thơ này, Quách Tấn cố gắng bám sát nguyên tác tuy nhiên âm điệu chưa thật hay:

Bồi hồi trở lại trăn qua

Giấc nương canh một canh ba chẳng thành

Mắt vừa chợp lúc tàn canh

Sao vàng năm cánh quẩn quanh mộng hồn.

Bài Bệnh trọng (Bệnh nặng)

Nguyên tác:

Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt

Nội thương Việt địa cựu sơn hà

Ngục trung hại bệnh chân tân khổ

Bản ưng thống khốc khước cuồng ca.

Bản dịch Nam Trân
“Ngoại cảm” trời Hoa cơn nóng lạnh
“Nội thương” đất Việt cảnh lầm than
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn
Bản dịch Quách Tấn
Cảm ngoài mưa nắng trời Hoa
Thương trong đất Việt nước nhà lầm than
Bệnh trong lao, khổ muôn vàn
Khóc tuy đáng khóc vẫn tràn tiếng ca
Hai câu đầu trong bản dịch của Quách Tấn có thể xem là hay nhất vì dịch sát văn bản, thay từ Hán Việt bằng cụm từ thuần – Việt thể hiện mối tương quan giữa ngoại cảnh tâm cảnh trong văn bản thơ.

Bài Vãn Cảnh (Cảnh chiều hôm) cũng là một bài dịch hay, sát nguyên tác, giữ được chất thơ nhưng không lặp lại về từ ngữ.

Nguyên tác
Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình
Hoa hương thấu nhập lung môn lý
Hướng tại lung nhân tố bất tình
Bản dịch Quách Tấn
Mai khôi hé cánh rụng cành
Hoa tàn, hoa nở vô tình cả hai
Cửa lao lọt chút hương trời
Bất bình đưa kể với người trong lao.
5. Bài: Tân xuất ngục học đăng sơn

Nguyên tác
Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân
Giang tâm như kính tĩnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
Bản dịch Quách Tấn
Mây lồng núi núi lồng mây
Lòng sông không bụi trong tày gương trong
Bồi hồi lên đỉnh Tây Phong
Trời Nam ngắm vọi chạnh lòng cố tri.
Sau khi khảo một số bản dịch thơ Quách Tấn, đặc biệt những bài thơ trữ tình của Hồ Chí Minh, có thể thấy đây là những bản dịch thành công trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh do Quách Tấn phỏng dịch. Tập thơ thể hiện rõ phong cách dịch thuật của Quách Tấn.

Với bản dịch này của nhà thơ Quách Tấn, những độc giả yêu mến “Nhật ký trong tù” có thêm một lựa chọn nữa bên cạnh bản dịch quen thuộc của Nam Trân và các bậc túc nho khác. Những trang thơ được dịch và thể hiện theo lối mới lạ, độc đáo trong ấn phẩm cho chúng ta hiểu và trân trọng hơn về tài năng dịch thuật, đặc biệt là về tình cảm của thi sĩ Quách Tấn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Vốn được biết đến là một dịch giả thơ Đường hàng đầu của nước ta, tuy nhiên trong bản dịch này, Quách Tấn đã phá cách, chuyển một số bài của “Nhật ký trong tù” sang những thể thơ truyền thống khác của Việt Nam như thể thơ lục bát, bởi theo nhà thơ, “Có nhiều bài tôi thấy dịch thành lục bát ý vị hơn”. Chính vì lý do này, nên Quách Tấn đã khiêm tốn để là “phỏng dịch”.
Đặc biệt với ấn bản này, bạn đọc sẽ được “chiêm ngưỡng” những bài thơ của Bác với phần chép tay chữ Hán của nhà thư pháp Trần Thúc Lâm, một người bạn văn chương của Quách Tấn và phần chép tay chữ quốc ngữ rất đẹp của chính nhà thơ.

Trung tâm Sách quốc gia, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật và sàn sách trực tuyến quốc gia book365 sẽ tổ chức Tọa đàm ra mắt sách “Nhật ký trong tù” vào 9h ngày 18/5 tại Trung tâm Sách quốc gia (24 Quang Trung, Hoàn Kiếm, Hà Nội), với sự tham gia của 3 vị diễn giả: Nhà sử học Dương Trung Quốc; nhà nghiên cứu Hán học, PGS.TS. Lê Văn Toan và nhà văn Quách Giao, con trai của nhà thơ Quách Tấn.


Tablet Gò Vấp
☎ 0️⃣9️⃣4️⃣7️⃣7️⃣1️⃣1️⃣8️⃣8️⃣1️⃣
🏬859 Quang Trung, Phường 12, Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh
👉 Maps: https://g.page/r/CVSFBogl7CfWEAE
✌Thời gian làm việc: 08h00 - 22h00
 
Bên trên