tran hương
Well-known member
Triển lãm 'Ẩm thực Nam Bộ thời kháng chiến'
TP HCM Cọng rau muống già, lá bàng, vỏ chuối là thức ăn thời chiến, qua câu chuyện kể bằng hình ảnh ở triển lãm về ẩm thực Nam Bộ.
Bảo tàng Chứng tích chiến tranh triển lãm chuyên đề Ẩm thực Nam Bộ thời kháng chiến, tái hiện nét sinh hoạt đời thường, sáng tạo của quân dân qua các món ăn dân dã. Hoạt động chào mừng 80 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9 và kỷ niệm 50 năm ngày thành lập bảo tàng.
Bấm để lật ảnh sau/trước
Sự kiện trưng bày các vật dụng nấu nướng, gia vị, thức ăn phổ biến trong thời chiến, mang nét đặc trưng đời sống văn hóa Nam Bộ.
Ở lối vào các gian triển lãm giới thiệu tranh vẽ về những loại cây lương thực, rau trái chính của miền Nam như lúa gạo, bông điên điển, lục bình, sen, măng, trái bần.
Tường của phòng trưng bày được thiết kế những kệ đặt các loại thực phẩm lên men (mắm, muối chua) như mắm tôm chua, bò hóc, cá sặc, cá linh. Khách tham quan có thể ngửi trực tiếp sản vật để cảm nhận hương vị.
Các loại mắm là một phần không thể thiếu trong ẩm thực Nam Bộ. Nhờ mặn, chúng có thể bảo quản được lâu, mang lại hương vị đậm đà, sự tiện lợi cho những bữa ăn giản dị trong rừng.
Không gian nấu nướng với bếp củi đất nung, nồi niêu, chén bát sành sứ và cà mèn đựng đồ ăn. Những vật dụng này quen thuộc, gắn liền với đời sống thường nhật trong sinh hoạt ẩm thực từ thời chiến đến thời bình.
Ngoài những vật dụng gồm chén đĩa, niêu, rổ rá còn có các đồ dùng sinh hoạt được chế tạo phù hợp cho những chuyến hành quân, bữa cơm dã chiến như bi đông, lập là, mâm, ca (vật dụng để đựng nước).
Bấm để lật ảnh sau/trước
Lập là, mâm, ca và muỗng (ảnh trước) của các chiến sĩ sử dụng trong thời gian sinh hoạt, làm việc tại đoàn văn công T2 (1968-1975). Ảnh sau là bi đông đựng nước uống, đèn măng xông để làm bếp nấu, lon Guigoz để đựng gạo, thức ăn, pha trà. Đây đều là những vật dụng cần thiết mà người lính thường mang theo trên đường hành quân.
Một du khách nước ngoài xem các cách thức vận chuyển, cất giữ lương thực trên người của bộ đội.
Triển lãm còn giới thiệu các hiện vật thể hiện những hành động thầm lặng của người dân để hỗ trợ lương thực từ hậu phương ra tiền tuyến.
Chiếc nồi bị thủng lỗ, từng được bà Lê Thị Khuynh nấu cơm cho chiến sĩ. Đêm 15/6/1968, tại xã Vĩnh Lộc (TP HCM), bà Khuynh ở lại hậu phương nấu cơm cho đội dân công hỏa tuyến khoảng 60 người (đa phần là phụ nữ) làm nhiệm vụ vận chuyển đạn dược phục vụ chiến dịch Mậu Thân.
Bà nấu 60 phần cơm nhưng khi đến điểm hẹn tại ngã ba kênh Láng Cát, đơn vị bị địch tập kích. Vụ nổ làm 32 người hy sinh, 21 người bị thương. Nồi bị trúng bom thủng lỗ nhưng bà không bỏ đi mà lấy đinh nhôm đóng lại, tiếp tục dùng. Chiếc nồi không còn đơn thuần là vật dụng bếp núc, mà trở thành chứng tích chiến tranh.
Mô hình bếp Hoàng Cầm cùng video giới thiệu được trưng bày.
Đây là loại bếp dã chiến do chiến sĩ Hoàng Cầm sáng tạo năm 1951 trong kháng chiến chống Pháp. Bếp được thiết kế chìm dưới đất, có hệ thống ống dẫn khói dài và phân tán ra nhiều hướng, giúp khói tỏa mỏng và tan nhanh, khó bị phát hiện từ xa. Cấu tạo này vừa giữ bí mật, vừa tiết kiệm nhiên liệu, lại phù hợp nấu ăn cho bộ đội trong rừng núi hay nơi đóng quân.
Bếp Hoàng Cầm trở thành một sáng kiến nổi bật, gắn liền với hình ảnh "hậu cần trong lòng đất" của quân đội nhân dân Việt Nam.
Bấm để lật ảnh sau/trước
Một góc khác giới thiệu cách sống sót ở ngục tù Côn Đảo với những món ăn tự sáng chế từ vỏ chuối, cơm khô, cuống rau muống, lá bàng.
Món ăn được đặt tên mỹ miều gồm: Trứng rồng rốt là đậu phộng lén giấu được từ đất liền, ướp muối rang lên, Cơm mẹ quét hương lấy từ phần cơm rất ít còn thừa hoặc của tù nhân bị bệnh không ăn được, đem quạt cho khô rồi rang giòn lên với gia vị, Kim châm xào là vỏ chuối phơi khô cắt sợi, ngâm nước cho mềm rồi xào lên, Rau muối chua là cuống rau muống già cai ngục bỏ đi, ngâm thành dưa chua.
Mô hình bàng - loài cây cũng được tù nhân Côn Đảo tận dụng làm thức ăn.
Mỗi khi được ra sân sinh hoạt, người tù thường nhanh tay nhặt lá rụng và trái non để ăn ngay hoặc lấy quả khô đập ra lấy hạt. Họ còn lén giấu lá đem vào phòng giam rồi xé nhỏ, trộn vào cơm thiu, cá ươn để bớt mùi hôi khó nuốt.
Lá bàng chứa chất kháng khuẩn nên được tù nhân giã nát đắp vào vết thương. Trong ngục tù, cây bàng trở thành biểu tượng của sự sống và niềm hy vọng.
Nhiều du khách trải nghiệm cách xay bột bằng cối đá.
Bấm để lật ảnh sau/trước
Bức ảnh Hội mẹ chiến sĩ gói bánh nuôi quân ở Cà Mau năm 1972 và Bữa trưa cho chiến sĩ năm 1973 (sau).
Chuyên đề trưng bày kéo dài hết tháng 12/2025, giá vé vào bảo tàng 40.000 một người.
TP HCM Cọng rau muống già, lá bàng, vỏ chuối là thức ăn thời chiến, qua câu chuyện kể bằng hình ảnh ở triển lãm về ẩm thực Nam Bộ.

Bảo tàng Chứng tích chiến tranh triển lãm chuyên đề Ẩm thực Nam Bộ thời kháng chiến, tái hiện nét sinh hoạt đời thường, sáng tạo của quân dân qua các món ăn dân dã. Hoạt động chào mừng 80 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9 và kỷ niệm 50 năm ngày thành lập bảo tàng.

Bấm để lật ảnh sau/trước

Sự kiện trưng bày các vật dụng nấu nướng, gia vị, thức ăn phổ biến trong thời chiến, mang nét đặc trưng đời sống văn hóa Nam Bộ.
Ở lối vào các gian triển lãm giới thiệu tranh vẽ về những loại cây lương thực, rau trái chính của miền Nam như lúa gạo, bông điên điển, lục bình, sen, măng, trái bần.
Tường của phòng trưng bày được thiết kế những kệ đặt các loại thực phẩm lên men (mắm, muối chua) như mắm tôm chua, bò hóc, cá sặc, cá linh. Khách tham quan có thể ngửi trực tiếp sản vật để cảm nhận hương vị.
Các loại mắm là một phần không thể thiếu trong ẩm thực Nam Bộ. Nhờ mặn, chúng có thể bảo quản được lâu, mang lại hương vị đậm đà, sự tiện lợi cho những bữa ăn giản dị trong rừng.

Không gian nấu nướng với bếp củi đất nung, nồi niêu, chén bát sành sứ và cà mèn đựng đồ ăn. Những vật dụng này quen thuộc, gắn liền với đời sống thường nhật trong sinh hoạt ẩm thực từ thời chiến đến thời bình.

Ngoài những vật dụng gồm chén đĩa, niêu, rổ rá còn có các đồ dùng sinh hoạt được chế tạo phù hợp cho những chuyến hành quân, bữa cơm dã chiến như bi đông, lập là, mâm, ca (vật dụng để đựng nước).

Bấm để lật ảnh sau/trước

Lập là, mâm, ca và muỗng (ảnh trước) của các chiến sĩ sử dụng trong thời gian sinh hoạt, làm việc tại đoàn văn công T2 (1968-1975). Ảnh sau là bi đông đựng nước uống, đèn măng xông để làm bếp nấu, lon Guigoz để đựng gạo, thức ăn, pha trà. Đây đều là những vật dụng cần thiết mà người lính thường mang theo trên đường hành quân.

Một du khách nước ngoài xem các cách thức vận chuyển, cất giữ lương thực trên người của bộ đội.

Triển lãm còn giới thiệu các hiện vật thể hiện những hành động thầm lặng của người dân để hỗ trợ lương thực từ hậu phương ra tiền tuyến.
Chiếc nồi bị thủng lỗ, từng được bà Lê Thị Khuynh nấu cơm cho chiến sĩ. Đêm 15/6/1968, tại xã Vĩnh Lộc (TP HCM), bà Khuynh ở lại hậu phương nấu cơm cho đội dân công hỏa tuyến khoảng 60 người (đa phần là phụ nữ) làm nhiệm vụ vận chuyển đạn dược phục vụ chiến dịch Mậu Thân.
Bà nấu 60 phần cơm nhưng khi đến điểm hẹn tại ngã ba kênh Láng Cát, đơn vị bị địch tập kích. Vụ nổ làm 32 người hy sinh, 21 người bị thương. Nồi bị trúng bom thủng lỗ nhưng bà không bỏ đi mà lấy đinh nhôm đóng lại, tiếp tục dùng. Chiếc nồi không còn đơn thuần là vật dụng bếp núc, mà trở thành chứng tích chiến tranh.

Mô hình bếp Hoàng Cầm cùng video giới thiệu được trưng bày.
Đây là loại bếp dã chiến do chiến sĩ Hoàng Cầm sáng tạo năm 1951 trong kháng chiến chống Pháp. Bếp được thiết kế chìm dưới đất, có hệ thống ống dẫn khói dài và phân tán ra nhiều hướng, giúp khói tỏa mỏng và tan nhanh, khó bị phát hiện từ xa. Cấu tạo này vừa giữ bí mật, vừa tiết kiệm nhiên liệu, lại phù hợp nấu ăn cho bộ đội trong rừng núi hay nơi đóng quân.
Bếp Hoàng Cầm trở thành một sáng kiến nổi bật, gắn liền với hình ảnh "hậu cần trong lòng đất" của quân đội nhân dân Việt Nam.

Bấm để lật ảnh sau/trước

Một góc khác giới thiệu cách sống sót ở ngục tù Côn Đảo với những món ăn tự sáng chế từ vỏ chuối, cơm khô, cuống rau muống, lá bàng.
Món ăn được đặt tên mỹ miều gồm: Trứng rồng rốt là đậu phộng lén giấu được từ đất liền, ướp muối rang lên, Cơm mẹ quét hương lấy từ phần cơm rất ít còn thừa hoặc của tù nhân bị bệnh không ăn được, đem quạt cho khô rồi rang giòn lên với gia vị, Kim châm xào là vỏ chuối phơi khô cắt sợi, ngâm nước cho mềm rồi xào lên, Rau muối chua là cuống rau muống già cai ngục bỏ đi, ngâm thành dưa chua.

Mô hình bàng - loài cây cũng được tù nhân Côn Đảo tận dụng làm thức ăn.
Mỗi khi được ra sân sinh hoạt, người tù thường nhanh tay nhặt lá rụng và trái non để ăn ngay hoặc lấy quả khô đập ra lấy hạt. Họ còn lén giấu lá đem vào phòng giam rồi xé nhỏ, trộn vào cơm thiu, cá ươn để bớt mùi hôi khó nuốt.
Lá bàng chứa chất kháng khuẩn nên được tù nhân giã nát đắp vào vết thương. Trong ngục tù, cây bàng trở thành biểu tượng của sự sống và niềm hy vọng.

Nhiều du khách trải nghiệm cách xay bột bằng cối đá.

Bấm để lật ảnh sau/trước

Bức ảnh Hội mẹ chiến sĩ gói bánh nuôi quân ở Cà Mau năm 1972 và Bữa trưa cho chiến sĩ năm 1973 (sau).
Chuyên đề trưng bày kéo dài hết tháng 12/2025, giá vé vào bảo tàng 40.000 một người.